Lệnh ping trong Linux được sử dụng để kiểm tra kết nối mạng giữa hai thiết bị. Khi một tín hiệu ping được gửi từ một thiết bị đến thiết bị khác, nó sẽ đợi phản hồi từ thiết bị đó. Nếu phản hồi được nhận, kết nối mạng được coi là ổn định. Lệnh ping thường được sử dụng để kiểm tra độ trễ (latency) và tốc độ truyền dữ liệu giữa hai thiết bị trên mạng.
Cú pháp lệnh ping như sau:
ping [options] destination
Trong đó:
options
: là các tùy chọn để điều chỉnh lệnh ping, ví dụ như số gói tin ping, thời gian chờ giữa các gói tin ping, kích thước gói tin ping,…destination
: là địa chỉ IP hoặc tên miền của thiết bị đích.
Ví dụ:
ping 8.8.8.8
Lệnh này sẽ gửi một tín hiệu ping đến địa chỉ IP 8.8.8.8 để kiểm tra kết nối mạng.
Dưới đây là toàn bộ các tham số của lệnh ping trên Linux:
-c
: Số gói tin sẽ được gửi đi trước khi dừng lệnh ping.-s
: Đặt kích thước gói tin được gửi đi (mặc định là 56 byte).-i
: Thời gian giữa các gói tin được gửi đi.-t
: Không ngừng gửi gói tin ping.-q
: Chỉ in ra thông báo kết quả cuối cùng.-v
: Hiển thị chi tiết các gói tin ping.-n
: Không giải quyết tên miền thành địa chỉ IP.-W
: Thời gian chờ nhận phản hồi từ host đích.-I
: Gửi gói tin ping qua một interface mạng cụ thể.-p
: Thiết lập mẫu gói tin được gửi đi.-D
: Sử dụng kiểu dữ liệu RAW trong gói tin ping.
Một số tham số có thể kết hợp với nhau để đạt được kết quả mong muốn. Ví dụ, để gửi 3 gói tin có kích thước là 100 byte đến địa chỉ IP 192.168.1.1 và in kết quả cuối cùng, ta có thể sử dụng lệnh:
ping -c 3 -s 100 192.168.1.1 -q
Trong đó, -c 3
đặt số lượng gói tin là 3, -s 100
đặt kích thước gói tin là 100 byte, 192.168.1.1
là địa chỉ IP của host đích và -q
chỉ in ra thông báo kết quả cuối cùng.